TỪ PẮC-BÓ MÙA XUÂN 70 NĂM TRƯỚC
ĐẾN THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Ngày 20-6-1940, thủ đô Pa-ri của nước Pháp bị thất thủ trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bác chủ trương chuyển hướng hoạt động từ Côn Minh (Trung Quốc) đến biên giới Việt - Trung, rồi về hẳn trong nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đây là bước ngoặt lịch sử rất quan trọng.
Trưa ngày 8-2-1941 (Mồng hai Tết Tân Tỵ), đồng chí Vũ Anh ra đón Bác ở chân một ngọn núi đá cạnh mấy đám ruộng vừa mới gặt xong. Mặt trời đã ngả sang chiều thì Bác và đoàn tùy tùng đã về bên này cột mốc biên giới.
Khi đến cột mốc 108 - cột mốc bằng đá như một tấm bia, hai mặt có khắc chữ Trung Quốc và chữ Pháp - Bác dừng lại, cúi đọc những chữ khắc sâu trong đá, rồi hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu tới dãy đất Tổ quốc trùng điệp.
“Bác đã về đây, Tổ quốc ơi,
Nhớ thương hòn đất, ấm chân Người.
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ,
Mà đến bây giờ mới tới nơi”.
(Tố Hữu)
Tài sản của Bác sau bao nhiêu năm đi khắp năm châu bốn biển, giờ đây vẫn chỉ một chiếc va-li con, trong đựng một ít tài liệu quan trọng và một chiếc máy chữ của các đồng chí trong nước gửi cho trước đây.
Pắc Bó, nơi địa đầu Tổ quốc, thay mặt Đất Mẹ, đón người con vĩ đại nhất của dân tộc, sau 30 năm xa cách, lần đầu tiên vui Xuân trên mảnh đất thân yêu của Tổ quốc.
“Ôi sáng Xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về…Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngân ngơ”.
Nhớ buổi Bác về nước, nhà thơ Chế Lan Viên viết:
“Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về
Xa nước ba mươi năm, một câu Kiều, Người vẫn nhớ.
Mái tóc bạc đã phai màu quá nửa
Lòng son ngời như buổi mới ra đi”.
Pắc-Bó là nơi đặt chân đầu tiên của Bác khi về nước, và sau đó vẫn là nơi đóng cơ quan của Bác cho đến lúc Bác chuyển về Tân Trào (4-5-1945).
Pắc-Bó là một bản nhỏ thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, nằm sát biên giới Việt - Trung, cách thị xã Cao Bằng gần 60 km. Nhân dân trong vùng chủ yếu là người Nùng.
Trong sương giá lạnh của miền núi đá biên cương, Bác sống và làm việc trong hang Pác-Bó. Trước hang, có dòng suối chảy về xuôi và dãy núi đá xanh. Cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đó đã được Bác thể hiện trong bài thơ “Pác-Bó hùng vĩ”:
“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Dòng suối không tên từ ngày có Bác về, đã trở thành suối Lênin, ngọn núi không tên đã trở thành núi Mác. Từ suối Lênin, từ núi Mác, ánh sáng cách mạng đã tỏa rộng muôn nơi…
Ở Pắc-Bó, cuộc sống tuy vô cùng khó khăn và kham khổ, nhưng Bác vẫn ung dung, thanh thản, luôn lạc quan, tin tưởng vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Tư thế của nhà thơ là tư thế đứng trên đầu mọi gian khó, hiểm nguy. Bài thơ đã làm sống lại cuộc đời của một nhà hoạt động chính trị bí mật trong thời kỳ cách mạng còn trong trứng nước.
Năm 1961, về thăm lại Pác-Bó, Bác xúc động cảm tác:
“Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây;
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay”.
Bài thơ bốn câu ngắn gọn đã phác họa con đường lịch sử 20 năm của dân tộc.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (10 đến 19-5-1941) do Bác chủ tri, họp ở rừng Khuổi Nậm, đã nhận định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần, quyết định thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để tập hợp lực lượng toàn dân. Hội nghị đã hoàn chỉnh đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 6-6-1941, Bác gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước tiến lên, đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật.
Bác cho xuất bản tờ báo Việt Nam Độc lập, sồ đầu tiên ra ngày 1-8-1941.
Cuối năm 1941, Bác viết “Lịch sử nước ta” bằng văn vần, và nhiều bài thơ để tuyên truyền, cổ động mọi người. Bài “Mười chính sách của Việt Minh” đã làm thức dậy truyền thống yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Những vần thơ Bác viết thời kỳ ở Pác-Bó thực sự là tiếng kèn xung trận, là khúc quân hành của Mặt trận Việt Minh trong cuộc trường chinh cứu nước.
Ngày 22-12-1944, Bác ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân Quân đội Nhân dân ngày nay.
Ngày 4-5-1945, Bác về Tân Trào, thủ đô khu Giải phóng. Tại đây, Bác triệu tập Quốc dân Đại hội; ngày 17-8-1945, Đại hội bầu Uỷ ban Dân tộc giải phóng tức Chính phủ Cách mạng đầu tiên ở nước ta, và phát lệnh “Tổng khởi nghĩa toàn quốc”.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử (Hà Nội), Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
“Chúng ta vui sướng hôm nay
Càng nên nhớ lại những ngày gian lao”(1)
(1) Thơ Hồ Chí Minh - NXB Giáo dục - H - 1977 - trang 234.